Tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn Lê_Sát

Tham gia khởi nghĩa và chiến công ở Lỗi Giang

Trong bộ Đại Việt thông sử soạn vào thời Lê trung hưng, sử thần Đại Việt Lê Quý Đôn viết tiểu sử Lê Sát không ghi ông sinh năm nào, chỉ biết ông "trí dũng hơn người". Năm 1407, vua Trung Quốc Minh Thành Tổ sai Tân Thành hầu Trương Phụ, Tây Bình hầu Mộc Thạnh đem 80 vạn quân đánh nước Việt (bấy giờ tên là Đại Ngu). Nhà Hồ chống cự thất bại, nước Việt bị sáp nhập vào Trung Quốc. Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi xưng Bình Định vương khởi binh ở Lam Sơn, Lê Sát tham gia khởi nghĩa từ đầu, theo Lê Lợi trải bao gian hiểm.[1]

Tháng 10 âm lịch năm 1420, nghĩa quân Lam Sơn đánh bại 10 vạn quân Minh do Tổng binh Phong Thành hầu Lý Bân, Đô đốc Đồng tri Phương Chính chỉ huy ở Thi Lang.[4] Lý Bân, Phương Chính chỉ chạy thoát được thân mình. Tháng 12 âm lịch năm 1420, Lê Lợi tiến quân đóng ở sách Ba Lẫm,[5] thuộc huyện Lỗi Giang, khiêu khích cho quân Minh ra đánh. Tướng Minh là Đô ty Tạ Phương, Hoành Thành bỏ đồn Nga Lạc, về giữ trại Quan Du[6] để phòng bị cho thành Tây Đô, cố giữ không ra đánh. Lê Lợi ngày đêm dùng nhiều cách tiến công uy hiếp để quân Minh mỏi mệt, rối loạn. Lại sai Lê Sát, Lê Hào chia nhau tiến đánh, cả phá bọn giặc, chém được hơn nghìn thủ cấp, thu được rất nhiều chiến cụ, từ đó thế giặc ngày một suy. Lê Lợi bèn chiêu tập nhân dân các xứ. Các huyện bên cạnh đều sôi nổi hưởng ứng, cùnh nhau tiến đánh và uy hiếp các đồn do quân Minh chiếm giữ.[7]

Trận đánh ở ải Khả Lưu

Tháng 11 âm lịch năm 1424, Lê Lợi đánh châu Trà Lân, bắt được Tri phủ Nghệ An Cầm Bành. Tháng 12 âm lịch, Lê Lợi chuẩn bị tiến quân ra vây thành Nghệ An, thì được tin Tổng binh Vĩnh Xương bá Trần Trí, Nội quan Sơn Thọ đem quân Minh đến. Lê Lợi sai Đinh Liệt đi đường tắt giữ thế tranh tiên, giữ huyện Đỗ Gia, bản thân tự cầm đại quân giữ nơi hiểm yếu.[8]

Ba, bốn hôm sau, quân Lam Sơn đánh bại quân Minh ở cửa Khả Lưu. Quân Minh chạy vào núi, đắp lũy, cố thủ không ra đánh. Lê Lợi đốt doanh trại cũ, tiến quân ngược dòng sông, giả trốn đi, rồi quay lại theo đường tắt, ngầm đợi quân Minh đến. Quân Minh không nghi ngờ gì, đem quân đến đóng ở doanh trại cũ của nghĩa quân, Lê Lợi cho quân tinh nhuệ khiêu chiến, quân Minh đem quân ra đánh. Lê Lợi tung phục binh ra đánh, các tướng Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê Tông Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê Văn An làm tướng tiên phong, tranh nhau giá trận, quân Minh tan vỡ, Đô đốc Chu Kiệt bị bắt sống, đô ty Hoàng Thành bị chém, bắt sống hàng nghìn người, vật tư, khí giới, thuyền bè không sao kể xiết.[8]

Lê Lợi thừa thắng đuổi tới 3 ngày, tới tận thành Nghệ An, quân Minh rút vào thành cố thủ.[8] Sách Đại Việt thông sử chép rằng: "Từ đó thế quân lừng lẫy".[1]

Vây thành Tây Đô

Năm 1425, nghĩa quân vây thành Nghệ An. Quân Minh tập trung cứu thành Nghệ An. Bình Định vương Lê Lợi cho rằng các thành Tây Đô (nay ở vào khoảng giữa hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa) đã suy yếu, liền sai chọn 2000 quân tinh nhuệ, 2 thớt voi, giao cho các tướng Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân Chú và Lê Triện, Lê Bị đi gấp theo đường đất đánh úp thành Tây Đô, chém được hơn 500 thủ cấp, bắt sống được rất nhiều. Bấy giờ người Thanh Hóa tranh nhau đến cửa quân xin liều chết đánh giặc. Lê Lợi sai quân vây thành Tây Đô.[9]

Trận Chi Lăng – Xương Giang

Tháng 8 âm lịch năm 1426, Lê Lợi sai 3 cánh quân tiến ra Bắc, cánh quân do Lý Triện, Đỗ BíĐinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy đánh bại 10 vạn quân của tổng binh Thành Sơn hầu Vương Thôngtrận Tốt Động, Chúc Động. Lê Lợi kéo quân từ Lũng Giang[10] ra hội quân đóng ở Tây Phù Liệt[11], rồi chuyển tới Đông Phù Liệt[12]. Vương Thông bị bao vây, định giảng hòa với nghĩa quân, nhưng nghe lời đô ty Trần Phong[13], tham chính Lương Nhữ Hốt, đô chỉ huy Trần An Vinh mà đổi ý.[14]

Lê Lợi bèn sai các tướng chia quân đi đánh các thành: Lê Quốc Hưng đánh hai thành Điêu Diêu,[15] và Thị Cầu;[16] Lê Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang;[17] Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý, Lê Lãnh và Lê Triện đánh thành Xương Giang;[18] Lê LựuLê Bôi đánh thành Khâu Ôn.[19][1][20]

Năm 1427, nghĩa quân bao vây Vương Thông ở thành Đông Quan. Quân Minh ở Nghệ An, Điêu Diêu đầu hàng, quân Minh bị đánh gấp bỏ thành Khâu Ôn, thành Xương Giang chưa bị phá. Hai tướng vây cửa Nam thành Đông Quan là Đinh Lễ và Lý Triện bị tử trận khi Vương Thông đánh úp ra, Lê Sát, Nguyễn Lý, Trịnh Lỗi, Nguyễn Chích được điều về vây mặt nam Đông Quan.[21]

Tháng 6 âm lịch năm 1427, Lê Sát được thăng làm Tư mã, Lê Lợi sai ông cùng Thái úy Trần Nguyên Hãn đánh gấp thành Xương Giang. Trần Nguyên Hãn cùng Lê Sát sai đào địa đạo đi ngầm vào thành, lại huy động quân dùng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa từ 4 mặt ập vào thành. Tháng 9 âm lịch, thành Xương Giang thất thủ, các tướng Minh Kim Dận và Lý Nhậm đều tự sát, Vương Thông phải viết 2 bài văn tế. Lê Sát, Trần Nguyên Hãn đem đàn bà con gái và ngọc lụa thu được trong thành chia hết cho quân sĩ.[1][22]

Vương Thông bị vây cùng quẫn trong thành Đông Quan, bèn gửi thư về Yên Kinh xin tiếp viện. Tháng 9 năm 1427, Minh Tuyên Tông sai Thái tử thái bảo An Viễn hầu Liễu Thăng làm Tổng binh, cùng Tả Phó Tổng binh Bảo Định bá Lương Minh, Hữu Phó Tổng binh Đô đốc Thôi Tụ, Tham tán quân vụ Binh bộ thượng thư Lý Khánh và Công bộ thượng thư Hoàng Phúc mang 10 vạn quân, 2 vạn ngựa đi đường Quảng Tây; Thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh cùng Tả Phó tổng binh Hưng An bá Từ Hanh, Hữu Phó tổng binh Tân Ninh bá Đàm Trung mang 5 vạn quân, 1 vạn ngựa đi đường Vân Nam sang cứu Vương Thông. Đường Liễu Thăng đi dự tính từ Lạng Sơn, qua Xương Giang để vào Đông Quan. Lê Lợi sai Lê Sát cùng Lê Nhân Chú, Lê Lãnh, Lê Liệt, Lê Thụ mang 1 vạn quân và 5 thớt voi lên đón đảnh ở ải Chi Lăng. Đây là ải hiểm trở nhất trên con đường từ địa đầu Pha Lũy đến Đông Quan, cách Pha Lũy khoảng 60 km, thuộc xã Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay. Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang mở màn.

Lê Sát, Lê Nhân Chú đặt phục binh ở Chi Lăng rồi sai tướng giữ ải Pha Lũy là Trần Lựu mang quân ra đánh nhử, giả thua, trước tiên bỏ ải Pha Lũy về ải Lưu. Liễu Thăng nhanh chóng chiếm ải Lưu, Trần Lựu lại lui về ải Chi Lăng.[23] Theo bộ sử biên niên nhà Minh, Hoàng Minh thực lục, quân Minh liên tiếp phá được trại quân Lam Sơn, dễ dàng như đi vào chỗ không người. Liễu Thăng tỏ ra khinh địch; Lý Khánh cố khuyên nhủ Thăng đề phòng phục binh nhưng Thăng bỏ ngoài tai.[24] Ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1427, hai bên lại đụng nhau ở Chi Lăng, Trần Lựu lại thua chạy. Liễu Thăng hăng hái dẫn quân tiến lên trước. Đến eo núi Mã Yên, Lê Sát và Lưu Nhân Chú tung quân mai phục 4 phía đổ ra đánh, tiêu diệt hơn 1 vạn quân Minh bỏ mạng[23][25] Liễu Thăng sa xuống vũng lầy, bị đâm chết bằng giáo.[24]

Ngày 25 tháng 9 âm lịch, Lê Lợi sai Lê Văn AnLê Lý mang quân lên tiếp viện cho Lê Sát, Lê Nhân Chú ở núi Mã Yên. Lê Sát cùng các tướng lại xung trận, đánh thắng quân Minh, giết được Bảo Định bá Lương Minh. Hôm sau, Lý Khánh cũng chết. Thôi Tụ và Hoàng Phúc lên nắm quyền chỉ huy. Quân Minh tuy thua nhưng còn đông và mạnh, Lê Sát chủ trương vây đánh, chặn giữ các đồn ải quanh vùng Chi Lăng và chặn đường về, chỉ để ngỏ đường đến Xương Giang. Thôi Tụ dự tính vào thành Xương Giang làm nơi trú quân để phối hợp với Vương Thông, nhưng khi tiến đến Xương Giang mới biết là thành đã bị quân Lam Sơn hạ. Thôi Tụ phải đóng quân ngoài cánh đồng Xương Giang.[23][26]

Thôi Tụ và Hoàng Phúc tiến lui đều không xong, bèn giả vờ xin hòa, mặt khác tìm cách chạy vào thành Chí Linh. Biết được kế này, Lê Lợi điều Trần Nguyễn Hãn đem quân đánh úp chặn đường vận chuyển lương thực của địch; Lê VấnLê Khôi mang 3 nghìn quân Thiết đột, 4 thớt voi lên tiếp viện cho Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Lý, Lê Văn An vây chặt quân Minh.[23] Tháng 10 âm lịch năm 1427, quân Lam Sơn tổng tấn công, thắng quân Minh một trận lớn, tiêu diệt 5 vạn quân Minh, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng hơn 3 vạn quân. Lê Sát được tính có công đầu trong trận này.[26]

Cùng lúc đó, các tướng Lê Khả, Phạm Văn Xảo giữ ải Lê Hoa, đánh tan 5 vạn quân Minh của Mộc Thạnh, Từ Hanh và Đàm Trung ở Lãnh Câu, Đan Xá (Lê Khả sau là người có hiềm khích với Lê Sát). Vương Thông ở Đông Quan thấy viện binh bị phá cũng đành xin giảng hòa và rút về nước.[23]

Viết về chiến dịch này, sử quan Lê Quý Đôn thời Lê trung hưng cho rằng "công ông đứng đầu các tướng".[27]

Phong thưởng

Năm 1428, đất nước thái bình, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, tức Lê Thái Tổ, lấy niên hiệu Thuận Thiên, định đô ở Đông Kinh, khôi phục nước Đại Việt. Lê Sát được ban hiệu Suy trung Tán trị Hiệp trung mưu quốc công thần. Nhập nội Kiểm hiệu Tư khấu Bình chương quân quốc trọng sự (tể tướng).[27]

Ngày 3 tháng 5 âm lịch năm 1429, Lê Thái Tổ ban biển ngạch công thần cho 93 viên, Lê Sát được phong Huyện thượng hầu, công hàng thứ nhất.[28]